Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

Bàn luận về tình hình kinh tế-xã hội giang san bây chừ: nhà băng quốc gia có thể đóng góp nhiều hơn cho ổn định thêm mới vào kinh tế vĩ mô. nếu không có chút sai lầm.

Nhờ đó trong một thời gian khá dài

Bàn luận về tình hình kinh tế-xã hội đất nước hiện nay: Ngân hàng Nhà nước có thể đóng góp nhiều hơn cho ổn định kinh tế vĩ mô, nếu không có chút sai lầm

Ban hành các cơ chế. NHNN mới ban hành được một nửa số văn bản cần ban hành. Coi nó là tội đồ gây ra lạm phát.

Lại it tốn kém. Tức khống chế đầu ra. NHNN dùng dụng cụ lãi suất cơ bản để khống chế lãi suất cho vay.

Phần cốt tử và quan trọng nhất là do nhu cầu tín dụng giảm do kinh tế khó khăn.

Kéo lãi suất huy động giảm theo. Tuy nhiên. Chính cách điều hành lãi suất không đồng bộ đó là nguyên cớ đẩy hệ thống NHTM chạy đua lãi suất không có hồi kết. Do không tiếp cận vốn vay… là có phần bổn phận của NHNN. Để đáp ứng nhu cầu trong nước. Đáng lẽ NHNN phải ra văn bản hướng dẫn kịp thời và đồng bộ.

Sức mua VNĐ dần ổn định. Từ khi chúng ta thành công chống lạm phát phi mã. Làm cho con số nhập siêu thấp đi. Đổi mới kinh tế là chuyển từ điều khiển vận hành nền kinh tế nói chung và từng bộ phận hợp thành nói riêng từ phương thức bằng mệnh lệnh hành thẳng thắn tiếp chuyển sang cơ chế thị trường tự do. 2 Luật Ban hành văn bản quy phi pháp luật (số 17/2008/QH12 ngày 3/5/2008 có hiệu lực thi hành từ 1/1/2009): “Văn bản quy định chi tiết… phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều.

Các chức năng này giữ vị trí khác nhau trong đời sống kinh tế. Mặt bằng lãi suất được giảm mạnh do đâu và có giữ được ổn định không? Thực tiễn cho hay. Sai lầm này đã gây ra muôn ngàn khó khăn trong hoạt động của các TCTD.

000 tấn; con số khác cho rằng khoảng 500 – 600 tấn). Việc NHNN quay trở lại độc quyền kinh doanh vàng. Cho dù chỉ vàng miếng là một sai trái. Thích hợp hơn để biến nguồn lực to lớn đang “nằm chết” trong dân đó thành vốn đầu tư phát triển mà còn làm thui chột khá nhiều chính sách đã có trước đây.

Lúc đầu là ứng dụng “cơ chế lãi suất căn bản”. Từ đó. Để lại hậu quả xấu mà chắc là phải cần một số năm nữa mới có thể khắc phục được.

Việc “tùng tiệm” ngoại tệ chỉ tả trên giấy bằng việc làm không đúng là không đưa số ngoại tệ nhập vàng về bán vào bảng cân đối ngoại tệ.

Thành ra đã hô hào thái quá việc chống “vàng hóa”. Tính đến tháng 10/2013. Doanh nghiệp mong muốn. Có hiệu lực thi hành từ 1/1/2011 (Luật TCTD 2010).

Chính việc NHNN cho phép các TCTD nhận gửi và cho vay vàng như USD là biến vàng thành tiền. Phải thực sự đồng bộ và nhất quán chẳng thể vừa tự do hóa lại vừa can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính. Chính sách quản ngại vàng vừa qua quá nhấn mạnh vàng với tư cách là dụng cụ tính sổ.

Đủ hơn nhiều. Nếu đã theo cơ chế thị trường thì phải theo đến cùng. NHNN thiếu tinh thần bổn phận trong việc ban hành văn bản chỉ dẫn Nhiệm vụ quan yếu nhất của ngành là nghiên cứu. Thời kì chống lạm phát phi mã. Tạo tiện lợi cho các TCTD hoạt động thì NHNN lại tắc trách trong việc này đặt các TCTD vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”: Dừng một số hoạt động thường nhật nào đó để chờ NHNN hướng dẫn thì gây thiệt hại mà tiếp kiến thực hành theo quy định cũ thì bị quy kết về tội cố ý làm trái.

NHNN đã nhập hơn 60 tấn vàng để phục vụ việc đấu thầu. Làm cho hạn vận trung bình tiền gửi tại các ngân hàng rút xuống còn dưới một tháng. Tỉ dụ: Luật Các tổ chức tín dụng mới nhất đã được Quốc hội phê chuẩn ngày 16/6/ 2010. Như tiền tệ; (2) Là hàng hóa. Đã có lúc các ngân hàng thương nghiệp chạy đua tăng lãi suất. Làm đối tượng kinh dinh như bất kì hàng hóa nào khác và (3) Vật cất trữ hộ thân.

NHNN yếu kém trong cai quản thị trường vàng Như mỏng của Chính phủ trước Quốc hội nêu “Tình trạng đô-la hóa.

Vàng hóa giảm đáng kể” nhưng điều đó có phải nhờ vào công tác điều hành của NHNN hay không? Qua quan sát. Là để thu phần chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế về ngân sách quốc gia chỉ là sự “vụng chèo khéo chống”. Từ năm 2008. Từ tháng 3 đến tháng 10 năm 2013. Từ tháng 3/2010 cũng chính bằng dụng cụ này.

Đương nhiên khi tình hình trở lại thông thường thì sẽ ứng dụng lãi suất thị trường cho cả đầu ra lẫn đầu vào. Kinh nghiệm lịch sử hình thành giá cả. Nay đã gần 3 năm kể từ ngày Luật TCTD 2010 có hiệu lực thi hành. Khi nền kinh tế bắt đầu xuất hiện những khó khăn. Bởi lẽ. Lượng vàng tích tụ trong dân là rất lớn và càng ngày càng tăng (hiện thời ở Việt Nam có nhiều thông tin cho rằng con số này là 700 – 1.

Về mặt pháp lí. Buôn lậu vàng trên thị trường. Chính sách độc quyền kinh dinh này có thể sẽ thất bại. Hướng khắc phục là cần sớm quay lại vận dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận như đã từng làm. Các nhà băng thương mại (NHTM) chỉ được hoạt động trong khung đó thôi. Trong trường hợp cấp thiết phải can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính thì phải can thiệp đồng bộ. Trong những trường hợp cần can thiệp cụ thể thì vận dụng khung lãi suất.

Cũng như bất kể hàng hóa nào khác đã có kinh doanh thì luôn đi liền với đầu cơ. Còn lãi suất đầu ra thì thả nổi. Sau đó là ứng dụng trần lãi suất huy động.

Có thời kì tương đối dài chúng ta đã khai phá khá tốt nguồn lực này. Trước đây. Buôn lậu.

Khoản. Cung – cầu về vốn đổi thay theo hướng người cho vay nhiều. NHNN đã thiếu tinh thần nghĩa vụ trong công tác này để lại hậu quả xấu. Mà giới hạn dưới là khống chế lãi suất huy động. Các NHTM làm sao dám cho vay ra với thời hạn đủ cho một chu kì sản xuất 3 tháng. Sau khi nó đã gây ra không ít thiệt hại cho dân.

NHNN trong điều hành lãi suất có hai sai lầm căn bản: Một là. Còn nếu xem vàng như là hàng hóa. Đó là việc của chính quyền.

Không có chính sách hợp để khai phá nguồn lực tích lũy trong dân dưới dạng “vàng tích hộ thân” là một yếu kém khác nữa. Từ ý kiến phi thực tế này. Cụ thể.

Cũng chính NHNN bằng cách điều hành lãi suất sai trái đó là đẩy người gửi tiền chạy như đèn cù để rút – gửi tiền; gửi – rút tiền tại các ngân hàng làm rối loạn thị trường tiền tệ. Dẫn đến tình hình mặt bằng lãi suất cho vay giảm. Cho các tổ chức tín dụng. Sai trái. Không nhất quán khiến cho hệ thống lãi suất rối hơn. Còn lãi suất huy động thì thả nổi. Đẩy lãi suất lên cao ở nhiều thời khắc khác nhau.

Mỗi năm NHNN ban hành được 7 văn bản. Chúng ta đã quy định lãi suất huy động tối đa là 12%/tháng và lãi suất cho vay không được vượt 15%/tháng… Hệ lụy của việc điều hành lãi suất thiếu đồng bộ và nửa vời vừa qua của NHNN là khá nặng nề. Gọn. Theo thời gian. Mọi việc diễn ra thường nhật. Thực tiễn cho thấy vàng có 3 chức năng song song tồn tại (1) dụng cụ thanh toán.

Luật này có 42 điều trong số 162 điều đòi hỏi phải có văn bản dưới luật chỉ dẫn thi hành về 59 nội dung cụ thể. Còn dân thì dùng vàng một cách phổ thông để tính sổ trong việc mua – bán đất đai. Kinh nghiệm cho thấy càng khó khăn thì càng phải đối mới mạnh chứ không phải làm trái lại. Như vậy là không nhất quán và không đồng bộ khi “một dụng cụ” mà được điều hành theo hai cách khác nhau.

Chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế. NHNN quay lại áp dụng mệnh lệnh hành chính trong điều hành lãi suất. Tư nhân bị cấm kinh doanh vàng bạc và Đương nhiên cấm triệt để việc dùng vàng làm phương tiện thanh toán. Thành ra. Còn giới hạn trên của khung này là để khống chế lãi suất cho vay. Thì phải để việc kinh doanh vàng diễn ra thông thường. Doanh nghiệp không có nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh; giảm do những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thì vướng vào nợ xấu và nhiều nguyên do khác không đủ điều kiện để tiếp cận vốn.

6 tháng chứ không bàn đến thời hạn một năm. Chính sách để quản lĩnh vực tiền tệ. Tầng lớp tùy thuộc sự phát triển của mỗi thời gian; vào chính sách của cơ quan quản lí nhà nước… Trước năm 1989.

Thời đoạn vừa qua hàng loạt doanh nghiệp bị vỡ nợ. Vàng chẳng thể gây ra lạm phát. Lãi suất cả huy động lẫn cho vay giảm có phần không lớn nhờ vào công tác điều hành tiền tệ. Thí dụ. Còn việc thu chênh lệch giá trong – ngoài về cho ngân sách thì có cách làm khác để thu nhanh.

#. Hai là. Kim Quốc Hoa. Trong điều hành lãi suất có gần 6 năm trước đó (2002 – 2008) ứng dụng cơ chế tự do hóa lãi suất. Việc người dân dùng vàng làm dụng cụ thanh toán trong mua – bán bị thu hẹp dần.

Tiền tệ thế giới thay vì tiếp thực hành cơ chế tự do hóa lãi suất theo quan hệ cung – cầu của thị trường. NHNN đã vi phạm Điều 8. Do thói quen và nhiều lí do khác. NHNN có nhiều yếu kém trong quản ngại thị trường này. Còn việc giải thích rằng hành vi độc quyền kinh doanh vàng miếng là để hà tiện ngoại tệ. Còn cho vay trung dài hạn để đầu tư là điều xa vời. Từ đó. Hàng hóa có giá trị vì VNĐ mất giá từng ngày.

Công việc của chính quyền là tìm cách chống đầu cơ. Đáng mừng là NHNN đã nhận làm bộ làm tịch này và có các quyết định chấm dứt. Lãi suất ở nước ta cho thấy. NHNN có sai lầm trong điều hành lãi suất gây hậu quả xấu? ”Mặt bằng lãi suất huy động và lãi suất cho vay giảm mạnh” là điều quần chúng. Nay NHNN không những không có chính sách tốt hơn.

Kinh dinh. Ngừng sản xuất. Vì có “in” được vàng như giấy đâu mà gây lạm phát? Trong khi đó.

Điểm được quy định chi tiết”. Người đi vay ít. Thực tế. Yếu kém trong quản lí thị trường vàng bắt nguồn từ chỗ hiểu không đầy đủ chức năng vàng ở nước ta.

Chính sách đó trở thành nguyên do “vàng hóa” nền kinh tế. NHNN lại dùng để khống chế lãi suất huy động.

Sống hoi hóp do nợ xấu. Theo quy luật và thực tế. Khi đã dùng mệnh lệnh hành chính trong điều hành lãi suất thì NHNN làm không đồng bộ. Dẫn đến cấm kinh dinh vàng miếng. Tức khống chế đầu vào (14%). Số vàng này còn nhiều hơn lượng vàng du nhập của những năm trước đó. Bản chất là đi ngược lại với Đổi mới.