Con số này có lẽ không nhiều
Rất tiếc chúng ta đã phát hiện ra hiện tượng này nhưng không có biện pháp xử lí hữu hiệu. Tôi mong Cục Đầu tư nước ngoài nên phân loại tỉ mỉ các DN FDI bỏ trốn vì nếu không chúng ta sẽ không có giải pháp đúng.Như ông vừa nói, tình trạng DN FDI bỏ trốn đã xuất hiện từ 10 năm về trước, nhưng tại sao chúng ta chưa thể xử lí vấn đề này mà để tồn tại dai dẳng đến bây chừ? Từ năm 2003, khi đi công tác ở Bình Dương, Đồng Nai.
Vấn đề là chúng ta để tình trạng này tồn tại lâu quá, xử lí quá chậm. Để đến hiện, con số DN bỏ trốn đã lên tới hơn 500 DN trên tổng số 12 nghìn DN FDI đang hoạt động ở Việt Nam. Một loại DN là do khó khăn kinh tế quốc tế và trong nước, nhất là khủng hoảng liên hồi gần đây đã khiến họ không trụ được khi kinh doanh ở Việt Nam khiến họ bỏ về nước.
Nếu chúng ta không thấy đây là dịp để lấp lỗ hổng pháp luật hiện tại bằng luật pháp hữu hiệu hơn để có cơ sở xử lí về sau này, đó sẽ là khiếm khuyết rất lớn. DN FDI chuyển giá, trốn thuế, tranh chấp lao động, DN bỏ trốn chúng ta phát hiện ra mới bắt đầu xử lí. Nên chi cần tăng cường thẩm tra, giám sát nhà đầu tư, khi phát hiện ra sai phạm ngay tức khắc xử lí, nếu vượt thẩm quyền phải vắng cấp trên ngay, tránh tình trạng như hiện thời.
Đây là con số rất lớn. Có quan điểm cho rằng số vốn thực hành của hơn 500 DN này chỉ chiếm 1% tổng vốn thực hành nên ảnh hưởng về kinh tế là nhỏ, mà chính yếu có tác động về mặt tầng lớp.
Loại thứ ba là loại DN có dấu hiệu vào Việt Nam để lường đảo bằng cách vay mượn vốn ngân hàng, huy động của người mua nhà đối với các dự án bất động sản, rồi sau đó ôm tiền bỏ trốn.
Tốt nhất chúng ta không nên để xảy ra tình trạng ấy, cũng đừng đánh giá thấp thiệt hại về kinh tế. Điều này khiến cho công tác quản Nhà nước về FDI luôn lúng túng, vấn đề nào nảy sinh lại chạy theo để giải quyết. Nhưng vì sao lại nhiều như vậy? Câu chuyện này không phải năm nay mới bắt đầu, mà tình trạng này đã xuất hiện từ 10 năm về trước.
Hơn nữa, thiệt hại về mặt xã hội cũng rất lớn, bởi vậy cần công bố cả con số công nhân bị ảnh hưởng khi chủ DN FDI bỏ trốn cũng như số thuế Nhà nước bị mất. Thứ ba, từ hiện tượng này cũng nên rút kinh nghiệm về mặt quản ngại quốc gia của chúng ta. Xin cảm ơn ông! Lương Bằng (thực hành).
Vậy để xử lí vấn đề DN FDI bỏ trốn, ông có thể khuyến nghị những phương án nào? Thứ nhất, phải hoàn thiện hệ thống pháp luật vì đây là vấn đề còn tiếp tục xảy ra thời gian tới. Đó là khiếm khuyết của các cơ quan quản ngại Nhà nước. Mới rồi, Nhà nước ban hành gói kích cầu bất động sản 30 nghìn tỉ đồng đã khiến nhiều người đặt kì vọng. Cơ quan quản Nhà nước, các chuyên gia kinh tế cần kết hợp với nhau để hình thành một phương án “sửa chữa” pháp luật, trước mắt là để xử lí những tồn đọng ngày nay.
Theo tôi xử lí chuyện này không phải ghê gớm lắm. Hai là loại DN đặt kì vọng lớn vào lợi nhuận làm ra được ở Việt Nam nhưng sau một thời gian sinh sản họ làm ăn thua lỗ nên phải bỏ về nước. Không nên bỏ tuốt tuột các DN vào một giỏ, mà phải xử lí theo tình trạng của từng loại DN để có giải pháp ăn nhập nhất. Theo tôi, có thể phân thành 3 loại DN. Ý kiến của ông như thế nào, thưa ông? Tôi không nghĩ kinh tế không bị ảnh hưởng bởi các DN FDI bỏ trốn, 1 tỉ USD tương đương khoảng hơn 20 nghìn tỉ đồng.
Nếu chúng ta không đánh giá đủ tầm quan trọng của con số này để xử lí quyết liệt thì rõ ràng cơ quan quản lí quốc gia phải chịu trách nhiệm về tình trạng đó.
Ông có bình luận gì về sự việc này? Tôi không biết con số 500 DN FDI bỏ trốn đã đúng với thực tiễn chưa, nhưng đó là con số cần công khai để người dân biết có tình trạng nhiều DN nước ngoài bỏ trốn khỏi Việt Nam.
Theo vắng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết tháng 5-2013, đã có tới 518 DN FDI bỏ trốn khỏi Việt Nam. Theo ông vì sao có tình trạng các DN FDI bỏ trốn khỏi Việt Nam? Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nên phân loại nguyên cớ các DN bỏ trốn.
Ngoài ra, theo công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số vốn thực hiện của trên 500 DN này là hơn 900 triệu USD, trong khi đó số vốn thực hành từ năm 1987 đến hết năm 2012 là trên 100 tỉ USD, có nghĩa số vốn thực hiện của các DN bỏ trốn chỉ chiếm 1% tổng vốn FDI thực hành.
Thứ hai, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhất là Cục Đầu tư nước ngoài, Ban quản các khu công nghiệp phải coi đây là vấn đề phải xử lí quyết liệt, tránh tình trạng phát hiện ra rồi để đó. Bấy lâu, chúng ta chưa chú trọng đến công tác hậu kiểm sau khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư nên chẳng thể nắm bắt được thực trạng của từng dự án. Chúng tôi đã thấy tình trạng một số nhà máy, xí nghiệp của các DN FDI “đắp chiếu” nằm đấy, nhưng luật pháp không có định chế xử lí chủ DN bỏ trốn, nhà máy “đắp chiếu”, nên 10 năm sau, xí nghiệp ấy vẫn còn tồn tại, địa phương chẳng thể thu hồi được đất đai, công nhân thì mất việc.